Kỳ 1: Thế
nào là “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ đối với Việt Nam?
“Diễn biến hoà bình” là chiến lược cơ bản
của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, đứng đầu là Mĩ nhằm lật đổ chế
độ chính. trị - xã hội của các nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ
nghĩa từ bên trong, chủ yếu bằng các biện pháp phi quân sự”.
Như vậy nội dung chính của diễn biến hòa bình là:
Như vậy nội dung chính của diễn biến hòa bình là:
- Sử dụng mọi thủ đoạn phi quân sự, kết
hợp với răng đe quân sự để ngầm phá từ bên trông, tạo ra các lực lượng chính
trị đối lập núp dưới chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền.
- Kích động các mâu thuẫn tôn giáo, dân
tộc, sắc tộc.
- Triệt để khái thác và lợi dụng những
khó khăn, sai sót của Nhà nước hiện hành, tạo nên sức ép ngày càng lớn buộc
lãnh đạo nhà nước phải từng bước chuyển hoá, thay đổi đường lối chính trị, nhường
quyền lãnh đạo cho lực lượng đối lập.
Tác động của
chiến lược “diễn biến hòa bình” là một trong những nguyên nhân đưa đến sự sụp
đổ của nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô.
Còn bạo loạn lật đổ là hành động chống
phá bằng bạo lực có tổ chức của lực lượng phản động, gây rối loạn trật tự an
ninh xã hội, nhằm lật đổ chính quyền tiến bộ (cách mạng) thiết lập chính quyền
phản động ở địa phương hoặc trung ương. bạo loạn lật đỗ là một thủ đoạn của chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực phản động trong chiến lược diễn biến hòa bình để
xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ”.
Như vậy, đây là hoạt động bằng bạo lực có
tổ chức của chủ nghĩa đế quốc và lực lượng phản động để chống phá các nước tiến
bộ trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa. Mục đích nhằm lật đổ chính quyền
tiến bộ thiết lập chính quyền phản động ở địa phương hoặc trung ương.
Có thể nói, “Diễn biến hòa bình” và bạo
loạn lật đổ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. “Diễn biến hòa bình” là quá trình
tạo nên những điều kiện, thời cơ cho bạo loạn lật đỗ. Cả diễn biến hòa bình và
bạo loạn lật đỗ đều cùng bản chất phản cách mạng trong âm mưu chống phá các
nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa.
“Diễn biến hòa bình” lúc đầu chủ nghĩa đế
quốc sử dụng như là một phương thức, thủ đoạn luôn gắn với chiến lược quân sự,
hỗ trợ cho chiến lược quân sự, dần dần phát triển thành một chiến lược hoàn
chỉnh trong chiến lược phản cách mạng toàn cầu của chúng. Quá trình đó được
diễn ra sơ lược như sau:
- Những năm của thập kỷ 40 – 50 (Sau khi
chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc (1945):
Ngày 22 tháng 12 năm 1946 người đại diện
của Mĩ ở Liên Xô, đã trình lên Chính phủ Mĩ kế hoạch chống Liên Xô toàn diện:
bao vây quân sự; phong toả kinh tế; lật đổ chính trị; có thể dùng vũ lực can
thiệp.
Cũng thời gian này, giám đốc CIA (cơ quan
tình báo Mĩ) tuyên bố: Mục tiêu là phải gieo rắc ở Liên Xô sự hỗn loạn và phải
bắt đầu bằng chiến tranh tâm lí, thay giá trị của họ bằng đồ rởm và tìm mọi
cách ủng hộ và nâng đỡ đám gọi là “nghệ sĩ” để họ truyền bá bạo lực, đồi trụy,
chủ nghĩa vô liêm sỉ, phản bội. Tóm lại, mọi thứ vô đạo đức. Từ đó chiến tranh
tâm lí chống Liên Xô được nâng lên hàng quốc sách ở Mĩ, gọi là chiến tranh tâm
lí tổng lực. Trong hai năm 1949 – 1950, Mĩ đã chi 50 triệu đô la cho hoạt động
chiến tranh tâm lí, năm 1949 Mĩ lập Uỷ ban Châu Âu tự do có đài phát thanh
riêng (đài phát thanh “Châu Âu tự do”).
Như vậy đến thập kỷ 50, ý tưởng diễn biến
hòa bình đã được bổ sung cho chiến lược tiến công quân sự.
- Những năm 60 Tổng thống John F. Kennedy
(J. Kennơđi) đưa ra chiến lược hoà bình, với chính sách “mũi tên và cành ô
lưu”. Từ đây “diễn biến hòa bình” bước đầu trở thành chiến lược của chủ nghĩa
đế quốc và luôn đi bên cạnh sức mạnh quân sự.
- Những năm 70, Tổng thống Richard Nixon
(R. Nich-xơn) triệt để sử dụng chính sách ngoại giao “cây gậy và củ cà rốt”.
Với chính sách này, Mĩ vừa đe doạ bằng sức mạnh quân sự, vừa mua chuộc bằng lợi
ích kinh tế nhằm khuất phục các nước, nhất là các nước chậm phát triển. Trên
thực tế, một mặt tiếp xúc hoà hoãn với các nước xã hội chủ nghĩa: Tiến hành
thẩm thấu tư tưởng và văn hoá, gieo rắc hạt giống phá hoại từ bên trong; thực
hiện đối thoại thay cho đối đầu đối với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
Đàm phán trên thế mạnh là một phương sách của R.Nixon để thực hiện diễn biến
hòa bình trong giai đoạn này.
- Những năm 80, lúc này các nước xã hội
chủ nghĩa thực hiện cải tổ, cải cách, đổi mới, đây là một chủ trương đúng đắn
nhằm làm cho xã hội chủ nghĩa phát triển. Nhưng quá trình thực hiện, có
một số sai lầm, kẻ địch lợi dụng và chúng dùng diễn biến hòa bình ráo riết tiến
công nhằm làm các nước xã hội chủ nghĩa sụp dỗ.
Năm 1988, R. Nixon xuất bản cuốn sách
“1999 chiến thắng không cần chiến tranh”. Đó là cơ sở làm mốc cho sự hoàn chỉnh
chiến lược diễn biến hòa bình về lí luận. Năm 1989, Tổng thống George Bush (G.
Bu-sơ) đi thăm một số nước xã hội chủ nghĩa Đông âu: Ba Lan, Hunggari, đã phát
hiện ra những mâu thuẫn trong nội bộ Đảng Cộng sản và những sai lầm của Đảng
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. G. Bush đã xúc tiến nhanh chóng học thuyết
“Vượt trên ngăn chặn”. Và vào cuối những năm 80 đầu những năm 90, “diễn biến
hòa bình” được chủ nghĩa đế quốc thực hiện ráo riết, nó trở thành một chiến
lược tiến công mạnh mẽ vào các nước xã hội chủ nghĩa Đông âu và Liên Xô, làm
cho các nước này nhanh chóng bị sụp đổ.
Như vậy, “diễn biến hòa bình” có một quá
trình hình thành phát triển khá rõ nét. Quá trình đó theo một trình tự, lúc đầu
là một phương thức, một thủ đoạn dần phát triển thành một chiến lược hoàn chỉnh
nằm trong chiến. Lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu
là Mĩ và luôn gắn với chiến lược quân sự của Mĩ.
- Đối với Việt Nam :
Ngày 3 tháng 2 năm 1994, Mĩ tuyên bố bỏ
cấm vận kinh tế với Việt Nam .
Ngày 11 tháng 7 năm 1995, Mĩ tuyên bố bình thường hoá quan hệ Việt – Mĩ. Ngay
đêm 11 tháng 7 năm 1995 Tổng thống Mĩ Bil Clintơn (B. Clin-tơn) tuyên bố: “Việc bình thường hoá quan hệ của chúng ta với Việt Nam không phải là kết
thúc nỗ lực của chúng ta. Chúng ta sẽ tiếp tục phấn đấu cho đến khi chúng ta có
được những câu trả lời mà chúng ta có thể có”… “Chúng ta bắt đầu thảo
luận các vấn đề nhân quyền với Việt Nam , đặc biệt là những vấn đề liên
quan đến tự do tín ngưỡng”… “Tôi tin
tưởng rằng việc bình thường hoá và tăng cường các cuộc tiếp xúc giữa người Mĩ
và người Việt Nam sẽ thúc đẩy sự nghiệp tự do ở Việt Nam như đã từng diễn ra ở
Đông Âu và Liên Xô trước đây”…
Như vậy, âm mưu xuyên suốt của Mĩ đối với
Việt Nam là, xoá bỏ chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
càng nhanh càng tốt. Vậy vì sao Mĩ và các thế lực thù địch lại luôn theo đuổi
âm mưu đó. Theo các chiến lược gia phương Tây phân tích và cho rằng:
Thứ nhất, Việt Nam là ngọn cờ đấu tranh cho độc
lập dân tộc và đang kiên quyết nhất trong việc chống phá chủ nghĩa đế quốc.
Thứ hai, nếu xoá bỏ được chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam ,
sẽ có thêm nhiều thuận lợi để xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở các nước còn lại và uy
hiếp độc lập dân tộc của các nước khác.
Thứ ba, có xoá bỏ được chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam , Mĩ mới xoá được
“Hội chứng Việt Nam ”
trên đất Mĩ.
Song các chiến lược gia của Mĩ cũng thấy
được các trở ngại khi thực hiện âm mưu trên là:
Thứ nhất, Việt Nam có một Đảng Cộng sản giàu
truyền thống, có đội ngũ kế cận vững vàng.
Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam
nắm rất chắc ngọn cờ dân tộc.
Thứ ba, Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không
những không sụp đỗ như Đông Âu và Liên Xô mà còn tiến lên; lòng tin của nhân
dân Việt Nam vào Đảng Cộng sản và chủ nghĩa xã hội ngày càng được củng cố.
Chính vì vậy, chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực thù địch của chủ nghĩa xã hội luôn coi Việt Nam là một trọng điểm chống phá.
Mục tiêu là xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam ,
lôi kéo Việt Nam
vào quỹ đạo của chúng. Mục tiêu đó không hề thay đổi.
Để thực hiện được mục tiêu đó, chúng thực
hiện phương châm chỉ đạo là: Mềm,
ngầm, sâu. Quá trình
thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” là kết hợp răn đe quân sự có lựa chọn
và khi có thời cơ, xây dựng lực lượng phản động người Việt Nam ở trong và ngoài
nước Việt Nam là chính (như ngụy quân, ngụy quyền cũ không cải tạo, lực lượng
phản động trong dân tộc, tôn giáo, trí thức, văn nghệ sĩ, các phần tử thoái hoá
biến chất, bất mãn trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và trong nhân dân ta); phá
hoại càng cao, càng sâu càng tốt, phá có trọng điểm, chui sâu leo cao vào các cơ quan lãnh
đạo của Đảng, Nhà nước, lực lượng
vũ trang, phá hoại kinh tế là trọng tâm.
Thủ đoạn hoạt động chủ yếu là: Từ “diễn
biến hòa bình”, bạo loạn lật đỗ để tạo ra quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” từ trong nội bộ Đảng, Nhà nước, lực
lượng vũ trang và nhân dân. Thủ đoạn đó diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, vào mọi đối tượng trong đó tập trung trên một số lĩnh vực chủ yếu sau:
Một là, chống phá về
chính trị tư tưởng: Trọng tâm là xoá bỏ chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng làm tiêu tan nền tảng tư tưởng trong các
tổ chức Đảng, tổ chức xã hội và mọi tầng lớp nhân dân, nhất là đối với thế hệ
trẻ. Bằng cách ra sức tuyên truyền, xuyên tạc, hạ thấp hòng vô hiệu hoá chủ
nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng đối với xã
hội, như việc chúng đòi xoá Điều 4 trong Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam… Phá vỡ hệ thống nguyên tắc tổ chức trong hệ thống chính trị
(Đảng, Nhà nước, đoàn thể và của toàn xã hội), làm mất hiệu lực của nguyên tắc
tập trung dân chủ, là nguyên tắc tổ chức cao nhất của Đảng, Nhà nước ta. Phá vỡ
khối đại đoàn kết của toàn dân, của các tổ chức chính trị-xã hội. Bằng cách
xuyên tạc, chia rẽ. làm cho nội bộ ta không tin nhau, nghi ngờ lẫn nhau, gây
rối loạn nội bộ. Nhằm dễ cài cắm những quan điểm mơ hồ, những phần tử cơ hội,
thậm chí phần tử phản động, thực hiện kế hoạch “kén làm tổ”, “chui sâu, leo
cao” để ngầm phá ta từ bên trong lâu dài.
Hai là, hoạt động phá hoại kinh tế: Với ý đồ làm cho Việt Nam
rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế, luôn ở trạng thái đói nghèo, buộc phải
suy sụp hoặc phải khuất phục, chuyển hoá chế độ chính trị. Mục tiêu chính phá
hoại kinh tế là, lấy việc chống phá từ bên trong kết hợp với điều kiện bên
ngoài để tạo ra áp lực đối với nền kinh tế nước ta, thông qua kinh tế để buộc
ta chấp nhận các điều kiện chính trị.
Hiện nay chúng tập
trung phá vỡ quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa của ta bằng nhiều thủ đoạn rất
xảo quyệt, như việc lợi dụng quan hệ hợp tác đầu tư liên doanh, liên kết (nhất
là qua các khâu: vốn, chuyên gia, kĩ thuật), tìm cách phủ định định hướng chủ
nghĩa xã hội trong nền kinh tế nhiều thành phần, thực hiện: vừa khuyến khích,
ca ngợi kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, vừa tư nhân hoá dần dần làm mất
vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Chúng cho việc làm đó là để xoá tận gốc kiểu quan hệ sản xuất dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất ở Việt Nam .
Ba là, lợi dụng các vấn đề tôn giáo, dân tộc để
chống phá ta:
Về vấn đề dân tộc: Kẻ thù triệt để khai
thác các mâu thuẫn giữa các dân tộc do nhiều nguyên nhân gây ra, để chia rẽ
khối đoàn kết, tạo dựng những mâu thuẫn mới, kích động tư tưởng hẹp hòi dân
tộc, đòi quyền tự quyết dân tộc chủ nghĩa, như việc xuyên tạc, kích động, mua
chuộc, xúi dục một số dân tộc thiểu số đấu tranh Với Đảng, Nhà nước ta để đòi
cái gọi là “độc lập quốc gia tự trị”. Chúng tận dụng tối đa mọi cơ hội để kích
động làm bùng nổ các cuộc đòi ‘dân chủ’, tôn trọng “quyền” của các dân tộc,
nhằm gây rối loạn tình hình an ninh xã hội. Đặc biệt chúng chú trọng yếu tố tâm
lí và sự dồn nén khó khăn về đời sống tinh thần, vật chất (nhất là đối với đồng
bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, xa, vùng căn cứ cách mạng trước đây) để tạo
dựng xu hướng bất bình với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề tôn giáo: Chúng triệt để lợi dụng
chính sách tự do tín ngưỡng của Nhà nước ta, để truyền bá mê tín dị đoan và tư
tưởng phản động chống chủ nghĩa xã hội. Tích cực hoạt động, nhằm phối hợp lực
lượng phản động trong nước với lực lượng tôn giáo chống Cộng quốc tế, đẩy mạnh
hoạt động phá hoại để tạo ra thực lực trở thành lực lượng đối trọng với Nhà
nước ta. Như việc lợi dụng những phần tử phản động đội lết tôn giáo để hoạt
động gây kích động, phá hoại, xúi giục giáo dân đòi đất xây nhà thờ, chùa
chiền… để tập hợp, lôi kéo tuyên truyền kích động nhân dân, từng bước vô hiệu
hoá sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nước đối với nhân dân vùng có đạo,
tiến tới nhen nhóm, cài cắm lực lượng và xây dựng tổ chức phản động chống Đảng
và chế độ ta.
Phương hướng hoạt động chủ yếu của chúng
là đấu tranh ôn hoà đòi tự do tôn giáo, dẫn đến đấu tranh đòi tự do dân chủ, mở
rộng quan hệ quốc tế, đến đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, cuối cùng
kết hợp với sự chỉ đạo, giúp đỡ, viện trợ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
phản động bên ngoài sẽ giành thắng lợi qua bầu cử.
Bốn là, xâm nhập về văn hoá: Hoạt động tập trung nhất của chúng là tiến công vào nền văn hoá tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam . Bằng cách, làm phai mờ những
giá trị văn hoá truyền thống cách mạng của chúng ta, kết hợp với việc gieo rắc
Văn hoá phản động, suy đồi nhằm chuyển đổi văn hoá Việt Nam thành “thuộc địa
văn hoá” của chủ nghĩa đế quốc. Như việc thông qua nhiều “kênh”, nhiều thủ
đoạn, chúng ra sức tuyên truyền, cổ vũ cho văn hoá, lối sống phương Tây thực
dụng, trụy lạc, tôn thờ đồng tiền là trên hết, sống ích kỷ, phi đạo đức. Tất cả
việc làm đó còn nhằm tạo ra và bổ sung cho đội quân xung kích diễn biến hòa
bình, bạo loạn lật đỗ của chúng.
Năm là, vô hiệu hoá lực lượng vũ trang: Hoạt động chủ yếu của chúng nhằm phá vỡ hệ tư tưởng, tổ chức của quân
đội và công an. Làm cho lực lượng này xa rời mục tiêu chiến đấu, rêu rã tổ
chức; xói mòn về đạo đức, phẩm chất, lối sống… để dẫn tới giảm lòng tin vào
Đảng, vào chế độ, mất phương hướng và thay đổi bản chất cách mạng của mình. Tìm
mọi cách xuyên tạc, bôi nhọ bản chất truyền thống tốt đẹp của quân đội, công
an, chia rẽ nội bộ, chia rẽ tình đoàn kết máu thịt quân đội và nhân dân, quân
đội và Đảng…
Hiện nay, chúng đặc biệt chú ý đến trạng
thái tâm lí để tuyên truyền, xuyên tạc vị trí, chức năng, nhiệm vụ của quân đội
nhân dân. Đặt lợi ích kinh tế đối lập với lợi ích quốc phòng. Đối lập giữa hai
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhằm phủ định vai trò của quốc phòng trong
sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Toàn bộ những hoạt động của chúng nhằm
phủ định sự lãnh đạo của Đảng ta đối với quân đội và công an “trung lập hoá
quân đội và làm phai mờ biến đổi bản chất truyền thống cách mạng của quân đội,
công an”, “phi chính trị hoá” quân đội, công an. Cuối cùng còn quân đội Việt
Nam nhưng do chủ nghĩa đế quốc sai khiến.
Sáu là, kích động, phối hợp hành động của lực
Iượng phản động trong nước và phản động ngoài nước: Chúng sử dụng các lực lượng trong nước để làm cầu nối giữa các tổ chức
phản động trong nước và tổ chức phản động ngoài nước, vừa phối hợp hoạt động,
vừa tập trung lực lượng. Chúng sử dụng các thủ đoạn xảo quyệt, tinh vi trong
hoạt động để giành những mục tiêu cụ thể. Trong đó khoét sâu vào các vấn đề
kinh tế, dân chủ, nhân quyền, công bằng xã hội, phục hồi tư tưởng chống Cộng,
gây chiến tranh tâm lí làm hoang mang dao động ở một số người, tạo nên tình
hình xã hội luôn căng thẳng, nhằm gây bạo loạn lật đỗ từ nhỏ đến lớn: Như việc
hoạt động của bọn phản động người Việt sống ở nước ngoài thời kì chúng gọi là
“hậu bình thường hoá” quan hệ Việt - Mĩ, với hai trọng điểm chiến lược chống
ta: “Giữ vững chiến tuyến chống Cộng tại hải ngoại - tấn công mãnh liệt vào
Việt cộng tại quốc nội”, bằng những chính sách rất nham hiểm, xảo trá như:
Chính sách “ngoại vận”, nhằm mở các đợt hoạt động tuyên truyền sâu, rộng lên án
Việt Nam vi phạm nhân quyền, tự do dân chủ, đàn áp tôn giáo. Thực hiện chính
sách đó, chúng đi vào từng đối tượng để “vận động” và có những mục tiêu
cụ thể. Đối với tín đồ, đòi tự do tôn giáo, hành đạo, huỷ bỏ “hệ thống tôn giáo
quốc doanh”. Đối với dân, đòi dân chủ, dân sinh. Đối với văn nghệ sĩ, trí thức,
đòi tự do ngôn luận, hội họp. Chúng đem cách sử dụng mọi phương tiện truyền
thông nhằm “đánh vào trái tim khối óc ộng sản, huy động tận tâm thức sâu thẳm
của đồng bào trong nước”, hoặc chính sách “tổ chức, liên kết trong ngoài” để
liên kết các hội đoàn phản động ngoài nước, bí mật thành lập tổ chức phản động
trong nước và liên kết hai lực lượng đó lại…
Tóm lại, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
phản động dùng nhiều thủ đoạn, trên tất cả các lĩnh vực để chống ta. Chúng hết
sức chú ý đẩy mạnh, mở rộng quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” từ trong
nội bộ ta. Đồng thời với việc gây lình huống, tạo cớ để nhân danh các tổ chức
quốc tế nhảy vào can thiệp vào công việc nội bộ của ta, kể cả can thiệp bằng
quân sự. Chính vì vậy cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống chiến lược diễn biến
hòa bình, bạo loạn lật đỗ càng trở nên phức tạp, lâu dài, đòi hỏi sự kiên trì,
quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và chúng ta nhất định sẽ giành
thắng lợi.
Kỳ 2: Biện pháp phòng, chống "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ...
Lê Quang Thà
Kỳ 2: Biện pháp phòng, chống "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ...
Lê Quang Thà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét