Ngã ba Đồng Lộc (Can Lộc - Hà Tĩnh) đã mãi mãi đi vào lịch sử dân
tộc ta với những chiến tích hào hùng trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Địa danh này gắn liền với tên tuổi, chiến công và sự hy sinh anh dũng của mười
cô gái thanh niên xung phong tuổi đời còn rất trẻ.
Ngày 24 tháng 7 năm 1968, trong khi các cô đang làm nhiệm vụ san lấp
hố bom thông đường cho xe ra tiền tuyến thì máy bay Mĩ ào đến ném bom, giết hại
cả tổ thanh niên xung phong này. Từ đó, tinh thần chiến đấu và sự hy sinh anh
dũng của mười cô gái trên Ngã ba Đồng Lộc đã trở thành biểu tượng của lòng dũng
cảm, kiên cường trong chiến đấu của những chiến sĩ thanh niên xung phong nói
riêng và quân dân ta nói chung.
Đã có hàng trăm bài thơ ra đời nhằm ca ngợi, tỏ lòng khâm phục và
tiếc thương mười cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc. Các nhà thơ đã coi địa danh này là
“ngã ba trái tim”, là điểm gặp gỡ của cảm xúc. Nhà thơ Huy Cận đã phát hiện và
làm nổi bật giá trị, ý nghĩa của Ngã ba Đồng Lộc bằng một giọng thơ vừa trữ
tình vừa triết lý sâu xa:
Các
ngã ba khác trên đời làm bằng nước, bằng sông, bằng thủy triều lên xuống
Hay bằng đá bằng đất
Bằng xi măng cốt sắt
Bằng vôi trắng gạch xây
Bằng đèn xanh, đèn đỏ đủ màu
Hay bằng những sự chênh vênh vấp ngã
Nhưng ngã ba Đồng Lộc làm bằng
xương máu…
(Ngã ba Đồng Lộc)
Để làm nên Ngã ba Đồng Lộc lừng lẫy chiến công, trở thành niềm tự
hào của quân dân cả nước, khiến quân thù mất ăn mất ngủ, ngày đêm tìm cách đánh
phá, thì những chiến sĩ nơi đây phải đánh đổi bằng xương máu của mình. Cũng bởi
vì thế mà Ngã ba Đồng Lộc đã mang một vẻ đẹp riêng biệt, không giống bất cứ một
ngã ba nào khác. Mảnh đất và con người nơi đây phải hứng chịu hàng nghìn tấn
bom đạn của giặc và những người lính đã không sợ gian khổ, hy sinh để mạch máu
giao thông không bị tắc nghẽn. Bàn tay, đôi chân của các cô thanh niên xung
phong còn nhanh hơn kíp nổ. Có cô thì chuyên lấp hố bom, có cô thì chuyên phát
hiện bom nổ chậm và tự nguyện làm “cọc tiêu sống” đứng cắm cờ canh bom nổ chậm
để dẫn đường cho xe ra tiền tuyến. Trong trường ca Vạn lý Trường Sơn, nhà thơ
Nguyễn Hữu Quý đã phác họa dáng vẻ hiên ngang của những người con gái đứng báo
bom nổ chậm, mang vẻ đẹp vừa thánh thiện vừa trần thế:
Em cấy vào đêm sự sống
mong manh mùi con gái
Với những
hàng tiêu bằng thân thể
trắng
ngần
Những vầng
ngực rời nơi trú ẩn
Kéo
trăng về bên hút bom câm…
Các cô
tự nguyện kéo về phía mình những bầy “con ma”, “thần sấm” và dũng cảm đón nhận
loạt bom để cứu con đường khỏi bị thương, đảm bảo cho đoàn xe chở vũ khí cùng
những đoàn quân ra tiền tuyến. Sự hy sinh của mười cô gái đã trở thành nguồn động
viên cho những người lính khi ra trận, hồn các cô đã hóa thành những vì sao dẫn
đường đêm đêm, thành ánh trăng làm dịu đi cái khắc nghiệt của cuộc chiến tranh:
Em nằm
dưới đất sâu
Như khoảng
trời đã nằm yên trong đất
Đêm đêm
tâm hồn em tỏa sáng
Những
vì sao ngời chói lung linh…
(Khoảng trời , hố bom - Lâm Thị Mỹ Dạ)
Cũng
như bao thanh niên trên khắp đất nước lúc bấy giờ, mười cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc
đã tạm gác lại chuyện tình duyên, chuyện chồng con để hiến dâng tuổi xuân cho đất
nước. Vì thế, cho đến lúc hy sinh, các cô vẫn chưa một lần được yêu, chưa một lần
hò hẹn. Nhiều nhà thơ đã dành những vần thơ xúc động nhất thể hiện sự đồng cảm
sâu sắc về những khát khao hạnh phúc và sự trinh trắng của tâm hồn mười cô gái:
Mười
làn môi chưa một lần hò hẹn
Mãi trẻ
trung cô gái ngàn năm
Mười
mái tóc chưa trai làng nhẹ vuốt
Mãi
xanh cùng cây lá Trường Sơn…
(Viếng em - Bùi Văn Bồng)
Ở cái
nơi mà sự sống và cái chết cách nhau chỉ tích tắc ấy, trong sâu thẳm tâm hồn
mình, các cô càng khát khao được hò hẹn, được vuốt tóc, khát khao được nói tiếng
yêu thương… nhưng loạt bom nghiệt ngã đã cướp đi niềm khát khao chính đáng ấy;
để rồi mỗi người lính đi qua đều dâng dâng niềm thương cảm:
Các em
đi khi mười tám tuổi xuân
Và để lại
những trái tim trong trắng (...)
Tiếng
các em thét gọi nhau
trong chiến hào khói lửa
Còn
cháy lòng bao chiến sĩ xung phong…
(Gặp lại các em - Nguyễn Đình Chiến)
Rồi
chiến tranh qua đi, thời gian dần dần phủ màu xanh cây rừng trên những vạt đồi
nhưng vẫn còn đó những hố bom ngổn ngang, khô khét một thuở nào, vẫn còn đó nỗi
đau của mất mát, hy sinh không thể nào khỏa lấp được. Ngày hôm qua, hôm nay và
mãi mãi sau này, hàng triệu lượt người từ khắp đất nước vẫn tìm về Ngã ba Đồng
Lộc để tỏ lòng ngưỡng vọng, tri ân, để cảm thấy rằng hình như mười ngôi mộ này
được xây cất bằng “tiếng chim ca bên trời”, hình như mười cô gái vẫn lẩn khuất
đâu đây! Tâm hồn và máu xương của các cô đã hòa vào trời mây, cây cỏ, núi sông
này:
Cầm cỏ thì thấy mồ hôi
Cầm đất thì thấy dấu môi vẫn hồng…
(Mười
cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc - Đồng Đức Bốn)
Hơn hai mươi năm sau kể từ ngày mười cô gái đi vão cõi vĩnh hằng,
nhà thơ Mai Văn Phấn đã viết bài thơ Mười nén nhang ở Ngã ba Đồng Lộc, thành
kính dâng lên. Đây là tác phẩm đoạt giải Nhì (không có giải Nhất) trong cuộc
thi thơ của Báo Văn nghệ năm 1995. Bài thơ chỉ vẻn vẹn mười dòng lục bát tương ứng
với mười nén nhang dành cho mười cô gái:
Tháng ngày gương lược về đâu
Chân trời để xõa tóc một màu cỏ non
*
Các cô nằm lại trên cồn
Những chùm bồ kết khô giòn trong cây
*
Khăn thêu những dấu tay gầy
Thành mây Đồng Lộc bay bay trắng trời
*
Người ơi, tôi lại gặp người
Hơi bom vẫn thổi rụng rời cát khô
*
Nhang này quặn nỗi đau xưa
Tôi này tôi của cơn mưa về nguồn…
Bài thơ ngắn gọn, dồn nén cảm xúc đau buồn, nhớ thương trước mười
ngôi mộ. Ngôn ngữ thơ chắt lọc nhưng giàu tính gợi hình, gợi cảm. Các hình ảnh
cụ thể: gương lược, bồ kết, khăn thêu, cỏ xanh… gợi lên sức sống dẻo dai, tràn
đầy của tuổi trẻ. Nhà thơ nguyện làm cơn mưa về nguồn mong làm dịu bớt nỗi đau
cháy lòng của những hy sinh, mất mát xưa kia và mong làm mát lòng mười cô gái
trinh nguyên nơi chín suối…
Vào những ngày này, toàn dân ta đang kỷ niệm 70 năm ngày Thương
binh, Liệt sĩ 27/7, tưởng nhớ những người con ưu tú của quê hương, đất nước đã
anh dũng hy sinh, trong đó có mười cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc. Khó mà nói hết được
sự hy sinh cao cả của những người lính, cũng như không thể diễn tả hết lòng biết
ơn sâu nặng của chúng ta hôm nay về những người đã dâng hiến máu xương cho Tổ
quốc. Chúng ta hãy thành kính dâng nén tâm nhang trước Mười ngôi mộ ở Ngã ba Đồng
Lộc cùng nhà thơ Trần Mạnh Hùng:
Anh về Đồng Lộc em ơi
Nén nhang tưởng niệm thay lời hát ru…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét